Mác 16:15-18
NHỮNG LỜI GIẢ BIỆT
Phần giới thiệu: Chính vào ngày mà Đức Chúa Jêsus Christ đã sống lại từ kẻ chết trong đắc thắng đời đời, Ngài đã bắt đầu tiến trình sửa soạn cho các môn đồ Ngài về sự ra đi của Ngài. Chúa Jêsus vốn biết rõ Ngài sẽ thăng thiên về trời, và Ngài đã, 40 ngày sau khi Ngài sống lại từ kẻ chết. Chúa Jêsus vốn biết rõ khi Ngài ra đi, các môn đồ Ngài sẽ nắm lấy sứ mệnh nói tới công tác liên tục của Ngài trong thế gian. Họ đã được giao cho phần việc đem sứ điệp cứu rỗi cho đến các đầu cùng đất.
Nếu họ mang lấy sứ mệnh ấy, họ cần một sự hiểu biết chính xác sứ mệnh ấy đòi hỏi điều gì. Họ cần phải biết rõ sẽ có những thành công, và họ cần phải biết rõ cũng sẽ có nhiều thất bại. Họ cần phải biết rõ có người sẽ tin theo sứ điệp của họ, trong khi nhiều người khác sẽ từ chối chính sứ điệp ấy. Họ cần lời yên ủi, lời hy vọng và lời dạy dỗ. Đấy chính xác là những gì họ đã nghe từ Chúa Jêsus ngày ấy.
Hôm nay, tôi muốn nhắm vào Những Lời Giả Biệt của Chúa chúng ta nói với các môn đồ Ngài. Với những lời nầy, tôi nhìn thấy ba câu nói rõ ràng ra từ Chúa. Trong Những Lời Giả Biệt của Ngài, Chúa Jêsus nói tới Đòi Hỏi Dành Cho Hạng Thánh Đồ. Ngài nói tới Trách Nhiệm Của Tội Nhân. Ngài cũng nói tới Sự Công Nhận Hàng Tôi Tớ Của Ngài. Tôi muốn chia sẽ mấy câu nói nầy với bạn hôm nay khi tôi rao giảng về Những Lời Giả Biệt.
I. ĐÒI HỎI DÀNH CHO HẠNG THÁNH ĐỒ (câu 15)
A. Sứ điệp của chúng ta – Các môn đồ được truyền cho phải “giảng Tin Lành”. Họ cần phải vào trong thế gian đem “những tin tức tốt lành” nói tới ơn cứu rỗi cho mọi người nào chịu nghe theo sứ điệp ấy. Từ ngữ “Tin Lành” có ý nói tới “những tin tức tốt lành”, và đấy chính xác những gì là “Tin Lành”. Các môn đồ đã được trao cho một sứ điệp nói tới “những tin tức tốt lành” cho muôn dân.
Sứ điệp mà họ cần phải rao giảng là sứ điệp nào? Sứ điệp ấy được nhắc tới rõ ràng bởi Sứ đồ Phaolô ở I Côrinhtô 15:3-4: “Vả trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh”.
Tin Lành gồm có ba thành phần quan trọng. Cho phép tôi chia sẻ chúng với bạn ngay bây giờ đây:
1. “Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh...” – Tin tức tốt lành là đây: Chúa Jêsus đã chịu chết vì tội lỗi của hết thảy những ai bởi đức tin tin theo Ngài. Khi Chúa Jêsus bước lên thập tự giá và chịu thương khó, sự xấu hổ và sự phân cách ra khỏi Đức Chúa Trời, Ngài đã không làm điều đó cho bản thân Ngài. Ngài đã làm thế vì hết thảy những ai chịu tin nơi Ngài để được cứu, II Côrinhtô 5:21; I Phierơ 3:18. Muốn được cứu, bạn phải tin như thế!
2. “Ngài đã bị chôn...” – Tin tức tốt lành là đây: Sau khi Chúa Jêsus gục chết, thi thể Ngài được đem đặt trong một ngôi mộ. Tuy nhiên, linh hồn của Ngài, đã đi vào âm phủ, Êphêsô 4:8-10; I Phierơ 3:18-20. Chúa Jêsus đã bước vào chốn ấy bên dưới đất, nơi linh hồn người chết sẽ bị cầm giữ. Tại nơi đó, có một chốn được gọi là “Barađi” hay “lòng của Ápraham”. Đây là chỗ mà mọi thánh đồ xưa kia của Đức Chúa Trời đã chờ đợi sự cứu chuộc phải được hoàn tất. Ở đó, đã và vẫn còn có một chốn được gọi là “Âm phủ”. Đây là chỗ mà mọi linh hồn của kẻ bị mất bị cầm giữ. Từng tội nhân hư mất từ Cain cho đến người cuối cùng phải chết hôm nay đang ở đó.
Chúa Jêsus đã bước vào chốn ấy rồi rao giảng những tin tức tốt lành nói tới Ngài đã chịu chết vì tội lỗi và vì hạng tội nhân. Ngài nói cho David, Môise, Ápraham và phần còn lại biết rằng chương trình cứu chuộc đã được hoàn tất rồi. Khi ấy Ngài dẫn họ ra khỏi nơi đó mà về quê hương trên Thiên đàng. Ngài nói cho các linh hồn hư mất trong chốn ấy biết rằng sự vô tín của họ đã được khẳng định và họ bị định phải qua cõi đời đời trong Địa Ngục. Tôi tin Ngài cũng công bố ra sự thực là Ngài đã giải phóng dân sự Ngài ra khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, Satan và Địa Ngục cho đến đời đời rồi. Một thành phần quan trọng trong ơn cứu rỗi là chân lý cho rằng Chúa Jêsus buông tha cho từng linh hồn mà Ngài cứu chuộc!
3. “đến ngày thứ ba, Ngài từ kẻ chết sống lại theo Lời Kinh Thánh” – Tin tức tốt lành là đây: Đức Chúa Jêsus Christ đã sống lại ra khỏi mồ mả trong đắc thắng và quyền phép. Khi Chúa Jêsus chịu chết trên thập tự giá, Ngài đã phó sự sống Ngài vì dân sự của Ngài. Khi Ngài gục chết, Ngài đã kêu lên: “Mọi sự đã được trọn!” Trong giây phút quan trọng ấy, Chúa Jêsus đã công bố chương trình cứu rỗi được hoàn tất và Đức Chúa Trời đã vừa lòng. Khi Chúa Jêsus sống lại từ kẻ chết ba ngày sau đó, Đức Chúa Cha đã phán: “Amen!” Nếu Chúa Jêsus là một con người bình thường, Ngài sẽ không ra khỏi mồ mả kia được đâu. Chúa Jêsus chẳng phải là một con người bình thường! Ngài là Đức Chúa Trời ở trong xác thịt. Khi Ngài gục chết, một người vô tội đã bị kết án bằng cái chết. Vì Ngài chẳng có tội lỗi chi hết, sự chết không có quyền cầm giữ Ngài. Nó chẳng có một xưng nhận nào về Ngài cả, Rôma 6:23. Vì thế, Chúa Jêsus có quyền bước ra khỏi mồ mả trong đắc thắng và quyền phép, hứa hẹn sự sống đời đời cho hết thảy những ai chịu tin nơi danh của Ngài.
Đấy là sứ điệp mà chúng ta được trao cho để rao giảng. Đấy là những tin tức tốt lành nói rằng Đức Chúa Jêsus Christ yêu mến thế gian đến nỗi đã phó mạng sống Ngài để chuộc lấy hạng tội nhân, Giăng 3:16. Đây là những tin tức tốt lành nói rằng Ngài đã đánh bại ma quỉ và thế lực của hắn cho đến đời đời rồi, I Giăng 3:8. Đây là những tin tức tốt lành cho rằng Ngài đã sống lại từ kẻ chết để ban ơn cứu rỗi cho hết thảy những ai chịu tin theo Ngài, Hêbơrơ 7:25.
Nếu bạn đã tin theo sứ điệp ấy, tôi thách bạn chia sẻ nó với nhiều người khác. Nếu bạn chưa tin sứ điệp đó, tôi thách bạn hãy nhìn vào Chúa Jêsus bởi đức tin hôm nay mà được cứu!
B. Công trường truyền giáo của chúng ta – Các môn đồ cần phải đem “những tin tức tốt lành” đi “khắp thế gian”. Không một nơi nào bị hạn chế. Không một nhóm sắc tộc nào bị chừa ra. Bất luận sắc tộc ấy gian ác đến ngần nào, họ sống ở đâu, hay trông họ như thế nào đi nữa, họ cần phải được cung ứng cho sứ điệp nầy. Công trường truyền giáo của chúng ta vẫn có ở khắp nơi nào có người ta ở. Cụm từ “mọi người” đề cập tới từng cá nhân nào mang lấy ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Từng người một, bất chấp tình trạng tội lỗi, màu da, hay lai lịch tôn giáo của họ, là một ứng viên cho “những tin tức tốt lành”.
Dù chúng ta thuật lại những “tin tức tốt lành” ngang qua đại dương hay trên đường phố, chúng ta cần phải thuật lại những tin tức ấy. Khi chúng ta mở miệng ra rồi nói cho người khác biết tin tức đó, hay khi chúng ta gửi những đồng đôla của mình cho các giáo sĩ để họ có thể thuật lại ở nơi họ đang sinh sống, chúng ta đã dấn thân vào công cuộc truyền giáo.
C. Phương pháp của chúng ta – Mạng lịnh của Chúa là “Hãy đi...giảng”. Cụm từ “Hãy đi” là một mạng lịnh. Đây không phải là một lời đề nghị để chọn lựa chức vụ đâu. Đây là lời kêu gọi phải hành động! Chúng ta không phải tranh cãi dù chúng ta có chia sẻ Tin Lành hay không, chúng ta cần phải ra đi và chia sẻ Tin Lành ấy.
Cụm từ ấy rất là thú vị vì nó được viết ra trong một thì cần phải đọc như thế nầy: “Khi các ngươi đi...”. Nói khác đi, khi chúng ta sống cuộc đời nầy, chúng ta cần phải ở trong công việc thuật lại “những tin tức tốt lành” cho tha nhân biết.
Chúng ta cần phải thuật lại tin tức ấy với môi miệng của mình. Điều nầy rất rõ ràng từ chữ “giảng”, có nghĩa là “nói năng giống như sứ giả của nhà vua” vậy. Chúng ta cần phải đem sứ điệp của Vua chúng ta đến với thế gian bằng uy quyền và sự bảo đảm. Chúng ta cần phải nói cho họ biết mọi điều chúng ta biết về Ngài. Chúng ta cần phải thuật lại sứ điệp với sự bảo đảm rằng Ngài sẽ mặc ấy quyền phép cho chúng ta để thuật lại cho thế gian nầy biết mọi điều Ngài đã làm cho chúng ta, Công Vụ các Sứ Đồ 1:8. Tin Lành là một sứ điệp được vạch ra để đem truyền đạt bằng lời nói. Đức Chúa Trời đã chọn rao giảng làm phương pháp cho việc cung ứng sứ điệp của Ngài cho một thế giới bị hư mất, Rôma 10:17; I Côrinhtô 1:21.
Chúng ta cần phải thuật lại câu chuyện với đời sống của chúng ta. Nghĩa là, chúng ta cần phải sống trong một phương thức để hạng người hư mất đang sống quanh chúng ta sẽ nhìn thấy sự khác biệt trong đời sống của chúng ta và sẽ nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đã làm một việc gì đó nơi chúng ta, Minh họa: Philíp 1:27; Matihơ 5:16.
(Lưu ý: Đấy là mạng lịnh của Chúa cho dân sự của Ngài. Chúng ta lo liệu ra sao trong vai trò một Hội thánh khi đến lúc phải cưu mang Sứ Mệnh Cao Cả? Bạn xử sự ra sao trong vai trò cá nhân khi đến lúc chia sẻ đức tin của mình? Mạng lịnh là “Ngươi hãy đi”. Đây là một mạng lịnh dành cho từng và mỗi con cái của Đức Chúa Trời phải năng động trong công tác chia sẻ “những tin tức tốt lành” của Tin Lành cứu rỗi!)
I. Đòi hỏi dành cho hạng thánh đồ
II. TRÁCH NHIỆM CỦA TỘI NHÂN (các câu 16-17)
(Minh họa: Hạng thánh đồ có trách nhiệm phải chia sẻ Tin Lành ân điển. Hạng tội nhân cũng có trách nhiệm khi đến với Tin Lành. Trách nhiệm của họ có ba phần).
A. Phải trả lời – “Ai tin” – Khi một tội nhân nghe giảng sứ điệp Tin Lành, người ấy về mặt cá nhân có trách nhiệm phải tin theo sứ điệp ấy. Sự cứu rỗi diễn ra khi một tội nhân hư mất nghe những “tin tức tốt lành” nói tới ơn cứu rỗi, bị thuyết phục về tội lỗi và tin theo sứ điệp nói Chúa Jêsus chịu chết cho người và đã sống lại từ kẻ chết. Tội nhân tin theo sứ điệp, tìm kiếm bởi đức tin và ngay lập tức được biến đổi. Sự cứu rỗi là công việc của đức tin trong tấm lòng của tội nhân hư mất, họ tìm kiếm Chúa Jêsus bởi đức tin, và ngay lập tức được biến đổi bởi ân điển và quyền phép cứu rỗi của Ngài.
Cho phép tôi nhấn mạnh một lần nữa rằng ơn cứu rỗi không hề đến từ các việc lành của một người, những việc nhơn đức, hay lối sống hiền lành đâu. Ơn cứu rỗi cũng không đến từ tôn giáo hay nghi thức. Sự cứu rỗi luôn luôn là “bởi ân điển nhờ đức tin”, Êphêsô 2:8-9.
B. Hành động – “Tin và chịu phép báptêm” – Câu nầy bị hiểu sai và áp dụng sai bởi nhiều người muốn thêm phép báptêm vào đức tin như điều kiện để được cứu. Tôi có nhận nhiều e-mail nói về vấn đề nầy hơn bất kỳ vấn đề nào khác. Có nhiều người cảm thấy rằng phép báptêm là một thành phần quan trọng trong sự cứu rỗi. Tuy nhiên, sự thực của vấn đề rất là khác xa lắm. Cho phép tôi chia sẻ một vài lý do cho thấy tại sao tôi nói đây chẳng phải là sự dạy nói tới sự tái sanh qua phép báptêm.
+ Tên cướp trên thập tự giá không hề chịu phép báptêm, tuy nhiên ông ta được bảo đảm về sự cứu rỗi bởi Chúa Jêsus, Luca 23:43.
+ Người dân Ngoại nào tin ở Xê-sa-rê đều chịu phép báptêm sau khi họ tin Chúa, Công Vụ các Sứ Đồ 10:44-48.
+ Chính mình Chúa Jêsus không làm phép báptêm, Giăng 4:1-2. Điều nầy dường như là kỳ lạ nếu sự cứu rỗi đến từ phép báptêm.
+ Phaolô nói cho người thành Côrinhtô biết rằng ông lấy làm vui khi ông chỉ làm phép báptêm cho vài người trong số họ, I Côrinhtô 1:14-16. Chắc chắn là Phaolô sẽ không cảm tạ Đức Chúa Trời về điều đó, nếu phép báptêm là quan trọng để được cứu.
+ Gần 150 phân đoạn trong Tân Ước dạy chúng ta sự cứu rỗi chỉ nhờ một mình đức tin mà thôi.
+ Trong Tân Ước, phép báptêm được nối kết chặt chẽ với sự chết và sự chôn, Rôma 6:1-5. Đây là sự tượng trưng của việc chết đi đời sống cũ tội lỗi. Mặt khác, đức tin được gắn với sự sanh lại, hay đời mới trong Đấng Christ.
Nếu Chúa Jêsus không nói tới việc chịu phép báptêm để được cứu, thì Ngài đang nói tới điều gì chứ? Chúa Jêsus đang nói tới sự vâng phục đối với Đức Chúa Trời. Người nào được cứu bởi ân điển sẽ có một sự khao khát muốn đi theo Chúa trong phép báptêm của người tín đồ. Họ sẽ có sự khao khát muốn đưa ra bằng chứng rõ ràng, công khai về đức tin mới tìm được của họ. Đối với nhiều người, phép báptêm của họ nằm trong cơ hội thứ nhứt để nói cho đám đông biết rằng họ đã tin cậy Chúa Jêsus và Ngài đã cứu lấy linh hồn họ.
Dòng cuối là đây: Chúa Jêsus đang nói cho người thuộc về Ngài biết rằng ơn cứu rỗi kết quả trong sự vâng phục. Chúng ta không được cứu bởi việc làm của mình, nhưng chúng ta được cứu để làm thật nhiều việc, Êphêsô 2:10. Phép báptêm là một việc làm ở bề ngoài, nói tới một sự cứu rỗi ở bề trong. Phép báptêm là bằng chứng công khai của ơn cứu rỗi đã diễn ra bởi đức tin khi tội nhân hư mất tin tưởng nơi Đức Chúa Jêsus Christ. Đồng thời, một người chối không đi theo Chúa trong phép báptêm thì chẳng được cứu đâu.
(Lưu ý: Tôi biết có người sẽ đọc mấy lời nầy và muốn viết cho tôi câu “đừng kể đến tôi”. Đừng khó chịu chứ! Tôi sẽ không tranh cãi với bạn đâu và tôi sẽ chẳng trả lời nữa. Tôi không có thì giờ để tranh luận đâu).
C. Chấp nhận – “Ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt” – Tội nhân hư mất có cơ hội để tin theo đạo Tin Lành và được cứu. Người ấy có quyền chối bỏ Tin Lành và cứ hư mất trong tội lỗi. Tội nhân phải hiểu rằng nếu họ chối bỏ Đức Chúa Jêsus Christ và Tin Lành ân điển, họ phải đối mặt với mọi hậu quả của quyết định đó.
Nếu một người chối bỏ ơn cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã hiến cho qua Đức Chúa Jêsus Christ, chẳng còn có hy vọng cứu rỗi nào khác sẵn dành cho họ được, Hêbơrơ 2:3. Đức Chúa Jêsus Christ là CON ĐƯỜNG DUY NHỨT để đến với Đức Chúa Trời, Giăng 14:6; Công Vụ các Sứ Đồ 4:12. Chối bỏ Ngài là chối bỏ ơn tha thứ. Chối bỏ như thế là chối bỏ hy vọng. Chối bỏ như thế là chối bỏ ơn cứu rỗi. Chối bỏ như thế là chối bỏ Đức Chúa Trời, Đấng Christ và Đức Thánh Linh. Chối bỏ như thế là chối bỏ sự thánh khiết và vòng tay ôm lấy tội lỗi. Chối bỏ như thế là chối bỏ sự sống và nắm miết lấy sự chết. Chối bỏ như thế là chối bỏ Thiên đàng và ôm lấy Địa Ngục. Nếu bạn chối bỏ Đức Chúa Jêsus Christ và chối không tin theo đạo Tin Lành, bạn sẽ đi Địa Ngục, và bạn sẽ chẳng có ai để đổ thừa trừ ra chính mình bạn, Giăng 8:24; Matihơ 7:21-23; Khải huyền 20:11-15.
I. Đòi hỏi dành cho hạng thánh đồ
II. Trách nhiệm của tội nhân
III. CÔNG NHẬN CÁC THÁNH ĐỒ CỦA NGÀI (các câu 17-18)
+ Chúa Jêsus kết thúc lời lẽ của Ngài nói cùng các môn đồ bằng cách nói cho họ biết rằng các “dấu lạ” nầy sẽ đi theo các môn đồ thực. Cụm từ “các dấu lạ” có ý nói tới “một dấu hiệu; hay điều chi làm phân biệt”. Cụm từ nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời sẽ đặt một sự khác biệt giữa dân sự Ngài và người nào vẫn còn hư mất trong tội lỗi. Từ ngữ “được” có nghĩa là “đi kèm”. “Dấu lạ”, đánh dấu sự phân rẻ, hay minh chứng ơn cứu rỗi, sẽ “đi kèm” với đời sống của kẻ được chuộc.
+ Mấy câu nầy cũng bị hiểu sai bởi nhiều người mong muốn có điều gì khác hơn là đức tin đơn sơ nơi Chúa Jêsus. Có nhiều người muốn có một dấu lạ, một dấu cụ thể nào đó, cho thấy họ được cứu và quyền phép Đức Chúa Trời ở trên họ.
Từ hai câu nầy đã làm phát sinh nhiều phong trào và các sinh hoạt dị giáo. Nói tiếng lạ, bắt rắn trong tay, uống chất độc, đức tin chữa lành, một sự mê hoặc với ma quỉ, và các tư tưởng dị giáo khác nữa đã sinh ra vì hai câu nầy đã được rút ra khỏi văn mạch và được áp dụng không đúng.
+ Những hành động được mô tả trong hai câu nầy đề cập tới các biến cố đã diễn ra trong những ngày đầu tiên của Hội thánh. Khi Chúa Jêsus sai các môn đồ đi ra với Tin Lành ân điển, Ngài đã ban thẩm quyền cho sứ điệp của Ngài qua những sự tỏ ra lạ lùng về quyền phép của Ngài. Khi thời kỳ sứ đồ kết thúc, nhu cần về các phép lạ nầy đã kết thúc và chúng bị đình chỉ thôi không còn hoạt động nữa.
Tại sao chúng bị đình chỉ chứ? Tôi nghĩ câu trả lời được thấy có ở I Côrinhtô 13:8-11. Mấu câu nầy có ý nói tới “điều chi là trọn lành”. Bạn phải hiểu rằng Hội thánh đầu tiên không có bản tường trình trọn vẹn về Lời của Đức Chúa Trời cho con người. Trước khi kỷ nguyên sứ đồ kết thúc, Tân Ước đã được hoàn tất và con người có thể nắm bắt, và đọc từng lời của Đức Chúa Trời. Con người đã có sự mặc khải trọn vẹn của Lời Đức Chúa Trời cho nhân loại và chẳng còn cần tới các phép lạ để khẳng định sứ điệp nữa.
+ Cho phép tôi dành ra một phút để chỉ cho bạn thấy những gì tôi đã nói. Từng phép lạ được Chúa nhắc tới trong mấy câu nầy có thể được thấy trong sách Công Vụ các Sứ Đồ trừ ra một phép lạ. Hãy quan sát như sau:
+ Đuổi quỉ – Công Vụ các Sứ Đồ 8:7; 6:18; 19:11-16
+ Nói tiếng mới – Công Vụ các Sứ Đồ 2:4-11; 10:46; 19:6
+ Bắt rắn – Công Vụ các Sứ Đồ 28:5
+ Uống chất độc – Đây là vấn đề duy nhứt không được nhắc tới trong sách Công Vụ các Sứ Đồ. Một Giáo phụ Hội thánh đầu tiên có tên là Eusebius, nói rằng Joseph Barsabas, là người được chọn để chiếm lấy chỗ của Giuđa Íchrariốt, đã làm điều nầy trong suốt chức vụ của ông.
+ Đặt tay trên kẻ khác để được chữa lành – Công Vụ các Sứ Đồ 3:7; 19:11; 28:8-9
Nói khác đi, lời tiên tri nầy đã được ứng nghiệm trong Thế kỷ thứ nhứt, bởi các sứ đồ. Đức Chúa Trời đã làm nhiều phép lạ qua họ để chứng minh cho kẻ bị hư mất biết rằng Lời của Ngài là chơn thật.
+ Có nhiều phép lạ ngày nay không? Ngày nay có nhu cần về “các dấu lạ theo sau” không? Chúng ta có nên nói tiếng lạ, bắt rắn và uống chất độc để minh chứng rằng chúng ta đã được cứu không? Có phải đấy là cách Chúa đã chọn đến đến với người thế gian không?
Đức Chúa Trời đã chọn đến với thế gian qua việc giảng dạy, I Côrinhtô 1:21. Trong khi Đức Chúa Trời vẫn còn làm nhiều phép lạ và sai nhiều dấu lạ đến để khẳng định sứ điệp của Ngài, phép lạ lớn lao nhất trong thế gian ngày nay là đời sống của những người Ngài đã biến đổi qua quyền phép của sự tái sanh.
+ Ngài đã cứu và biệt riêng chúng ta ra. Ngài đã ban cho chúng ta “dấu lạ” của một đời mới, II Côrinhtô 5:17. Thế gian đã nhìn thấy các phép lạ của Sứ đồ trong Thế kỷ thứ nhứt rồi nhìn biết rằng sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời. Thế gian nhìn thấy sự thánh khiết, đức tin và sự vâng lời đơn sơ nơi đời sống của người được chuộc và nhìn biết rằng sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời. Vẫn có một dấu hiệu nơi những người đã được cứu bởi ân điển. Đấy chẳng phải là dấu hiệu của một dấu lạ nào. Đó là dấu hiệu của một đời sống được thay đổi! Chúa Jêsus hứa mặc lấy uy quyền cho những ai thuộc về Ngài. Ngài làm vậy bằng cách thay đổi đời sống của họ và tái tạo sự sống của Ngài bên trong họ, Galati 2:20; Rôma 4:29; Êphêsô 4:13-15.
Phần kết luận: Khi Chúa Jêsus sửa soạn về trời, tâm trí Ngài đã ở trên người của Ngài. Ngài muốn họ phải được sửa soạn cho thời buổi mà họ sẽ chịu trách nhiệm chia sẻ sứ điệp của Ngài với thế gian. Cũng vậy, Ngài đã ban cho họ Sứ Mệnh Cao Cả rồi sai họ đi ra để thuật lại cho thế gian biết về Ngài. Mọi tư tưởng sau cùng của Chúa chúng ta trong khi Ngài còn ở đây trên đất đều đặt vào Tin Lành ân điển.
Tin Lành vẫn là vấn đề rất quan trọng trong thế gian ngày nay. Bạn đã được Tin Lành chạm đến dù bạn có hiểu Tin Lành hay không! Thật vậy, ngày nay bạn đang đứng phía nầy với Tin Lành hay phía kia!?! Câu chuyện sau đây sẽ minh họa mọi điều mà tôi đã cố gắng trình bày:
Phần lớn chúng ta đều biết câu chuyện kể con tàu “R.M.S. Titanic”, con tàu được gán cho cái nhãn không thể bị đánh chìm, nó đã chìm vào ngày 14 tháng 4 năm 1912. Trong 2.223 người trên tàu chỉ có 706 người sống sót. Trong 1.523 người đã kết thúc trong làn nước băng giá ấy, chỉ có 6 người được cứu thoát.
Nhưng bạn biết không, một trong sáu người ấy đã được cứu hai lần trong đêm đó?
Câu chuyện của ông ta là một sự nhắc nhớ thật cảm động cho thấy có một thêm một người được cứu sống nữa.
Mặc dù vậy, khi kể lại câu chuyện của người nầy, trước tiên tôi phải nói cho bạn biết về một người khác, một nhà truyền đạo xứ Tô cách Lan có tên là John Harper. Harper đã lên tàu Titanic với Nana, cô con gái của ông mới có 6 tuổi. Ông dự tính đến với Hội thánh Moody tại Chicago, ông được mời đến đó để rao giảng trong ba tháng. Khi con tàu va phải tảng băng số phận kia rồi bắt đầu chìm xuống, Harper đã biết chắc con gái mình được đặt vào một trong mấy chiếc thuyền cứu hộ rồi. Khi ấy ông bắt đầu lo công việc truyền giảng cuối cùng trong cuộc đời trẻ trung của mình.
Khi làn nước băng giá bắt đầu phủ lấy con tàu, có người đã nghe Harper hô lên lớn tiếng: “Hãy để cho phụ nữ, trẻ em và người chưa được cứu vào mấy chiếc thuyền cứu hộ”. Những người sống sót đã thuật lại rằng Harper đã cởi chiếc áo cứu sinh của mình rồi trao nó cho một người khác. “Đừng lo cho tôi”, ông đã nói: “Tôi không bị chìm đâu, mà tôi được thăng lên kìa!”
Khi con tàu bắt đầu chìm xuống, hơn 1.523 hành khách đã nhảy xuống hoặc rơi vào làn nước băng giá kia. Khi họ dần dần chìm xuống hay bị lạnh mà chết, người ta nhìn thấy Harper lội từ chỗ người nầy sang người kia, nài nĩ họ hãy tiếp nhận Đấng Christ.
Chỉ có 6 trong số 1.523 người đang vật vã với làn nước kia sau cùng đã được cứu, kể cả người về sau tự nhận mình là người nhờ Harper mà trở lại đạo lúc sau cùng hết. Chàng thanh niên nầy đã trèo lên một tấm ván. Harper, ông đã phấn đấu trong làn nước ở gần người nầy, miệng hô lớn: “Anh đã được cứu chưa?”
Người kia đáp: “Chưa”.
Khi ấy, Harper hô lớn lời lẽ trích từ Kinh thánh: “Hãy tin Đức Chúa Jêsus Christ thì anh sẽ được cứu”. Người nọ không trả lời, và một phút sau người trôi đi theo dòng nước.
Vài phút sau đó, dòng nước đưa hai người trở lại với nhau. Một lần nữa, Harper hỏi: “Anh được cứu chưa?”
Một lần nữa, câu trả lời là “Chưa”.
Với hơi thở sau cùng, Harper hô to lên: “Hãy tin Đức Chúa Jêsus Christ thì anh sẽ được cứu”. Khi ấy, ông chìm hẳn xuống làn nước lần cuối cùng.
Khi ấy và ở đó, người đã chứng kiến kia bèn quyết định xây đời sống của mình về với Đấng Christ. Bốn năm sau, ở lần gặp gỡ của những kẻ sống sót của chiếc tàu Titanic ở Ontario, Canada, người nầy đẩm nước mắt đưa ra lời làm chứng của mình kể lại thể nào John Harper đã đưa dẫn ông đến với Chúa.
Tôi không cần phải nói, vì bạn biết câu chuyện rất cảm động nầy chưa hề được đưa vào điện ảnh. Chúng ta đang sống trong một xã hội dường như chỉ biết nhắm vào những câu chuyện lãng mạn, tình dục bất hợp pháp, và món nữ trang vô giá hơn là sự lãng mạn chơn thật giữa Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài.
Từng người một trong phòng nhóm nầy, một là giống như John Harper hay là người mà ông đã làm chứng cho. Chúng ta một là đem Tin Lành đến cho thế gian, hoặc chúng ta đang bám víu vào cuộc sống rồi cần có ai đó đem Tin Lành đến cho chúng ta.
Nếu bạn đã được cứu, Lời Lẽ Giả Biệt của Chúa là một lời kêu gọi dành cho bạn hãy bận rộn vì Ngài đi. Thế gian đang hư mất và chính bổn phận của chúng ta là phải đem Tin Lành đến với họ. Bạn có làm điều đó chưa?
Nếu bạn đang bị hư mất, chính bổn phận của bạn là phải tiếp nhập Tin Lành? Bạn có muốn làm như thế hôm nay không? Nếu bạn chịu đến với Ngài, Ngài sẽ cứu lấy linh hồn của bạn đấy!
Nếu Đức Chúa Trời đã phán với tấm lòng của bạn dù là ở cấp độ nào, bạn cần phải làm theo những gì Ngài muốn bạn phải làm ngay hôm nay!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét